Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

Chúng ta và Thượng Đế là Một?

Không có sự tách biệt

Cái tổng thể - Nguồn - tự trải nghiệm mọi mặt của đời sống ở các phần nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa của chính nó. Tất cả các phần trong đó đều đã có sẵn từ ban đầu. Không có phần nào là mới cả, chỉ đơn thuần là một phần của Cái Tổng Thể Đã Luôn Là Như Thế, tự trải nghiệm và tự chuyển hóa chính nó để trở thành những gì "trông có vẻ như là” các thành phần mới và khác nhau.

tat-ca-chung-ta-la-mot

Thể xác không phải là nhà chứa của linh hồn, mà là một phần quan trọng. Nói cách khác thì tất cả mọi thứ luôn luôn sống động và không có thứ gì gọi là "đã chết". Không có bất cứ dạng sinh mệnh nào chết cả. Cái tổng thể luôn sống động tự định hướng các phần nhỏ của chính mình sang các dạng mới - hình thức mới mà thôi. Và nó luôn luôn được nạp đầy năng lượng của sự sống.

Sự sống - Năng lượng sự sống, chính là Thượng Đế - luôn luôn tồn tại.

Khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta tách biệt, chúng ta đã tự xây nên các quy tắc dựa trên những gì chúng ta muốn, điều đó khiến con người tự tạo ra "các quy luật của Thượng Đế" là phải nói về cách hành xử. Và theo sau đó là sự trừng phạt nếu họ không hành xử theo những quy luật đó. Những ảo tưởng này sẽ được dẹp bỏ đi nếu chúng ta nghĩ rằng tất cả “Chúng Ta là Một”.

>>>Xem thêm bài viết "Luật của Một" tại đây<<<

Đây là sự khác biệt chính giữa nền văn minh của con người thời nay, một nền văn minh "sơ sinh" thực sự so với những gì nó đã từng, một nền văn minh nguyên thủy, so với hằng hà sa số các nền văn minh cao cấp khác trong Vũ trụ. Sự khác biệt lớn nhất trong nền văn minh tiến hóa cao là ở đó tất cả các sinh mệnh đều hiểu rõ rằng không có sự tách biệt giữa bản thân họ với những người khác. Họ biết rõ rằng chính họ đang có những trải nghiệm cá nhân của cái Tổng thể dù đa số chưa thực sự biết sự tồn tại của Thượng Đế. Tất cả chúng ta đang trong quá trình khẳng định chính bản thân mình.

Nỗ lực để khẳng định bản thân

Mỗi một hành động hay suy nghĩ đều là một định nghĩa về bản thân. Nếu bạn hài lòng với cách bạn tự sáng tạo và có lợi cho bạn, thì bạn vẫn sẽ tiếp tục làm mọi thứ theo cách đó. Điều này được gọi là tiến hóa. Điều duy nhất thay đổi khi tiến hóa chính là khái niệm về điều gì là có ích cho bạn. Và nó dựa trên những gì các bạn đang cố gắng để làm. Có một điều đúng đắn nhất là Thượng Đế tạo ra chúng ta. Nhưng giờ đây, chính chúng ta đang tạo ra Thượng Đế.

Và bạn đừng ngạc nhiên khi nghe điều này. Chính chúng ta là các Thượng Đế Con, và sứ mệnh của chúng ta là tìm về lại với bản thể nguyên gốc của chính mình, và từ đó tạo dựng nên các vũ trụ mới. Điều này là một nhận thức vô cùng khác biệt so với đa số mọi người. Đây là công việc Thần Thánh mà chúng ta cần làm, Chúng ta và Thượng Đế.

Đây là nơi linh thiêng mà chúng ta đang bước đi

Trong từng khoảnh khắc, Thượng Đế đều thể hiện bản thân bên trong và thông qua chúng ta. Có rất nhiều lựa chọn để sáng tạo ra Thượng Đế, và Ngài không bao giờ lấy đi cơ hội đó của chúng ta, cũng không bao giờ trừng phạt chúng ta vì đã tạo ra một lựa chọn "sai lầm". Sự đối ứng năng lượng hay luật nhân quả sẽ chỉ cho chúng ta thấy đó có là "sai lầm" hay không. Tuy nhiên, không phải không có sự chỉ dẫn trong vấn đề này. Sự chỉ dẫn này được xây dựng bên trong và nó tạo thành một hệ thống chỉ dẫn nội tại, nó cho bạn thấy con đường để trở về nhà của Thượng Đế. Đây là tiếng nói thì thầm bên trong bạn, luôn là sự lựa chọn cao nhất của bạn, luôn là hướng nhìn ưu tú nhất của bạn. Tất cả những gì bạn cần làm chính là chú ý đến tiếng nói đó, và đừng phớt lờ nó. Dĩ nhiên bạn cần thả lỏng tâm trí và suy nghĩ vẩn vơ ít thôi. Những tâm tư rối bời được sinh ra bên trong bạn bởi những áp lực trong cuộc sống hiện đại ngày nay đang dần che mất đi tiếng nói trực giác tuyệt hảo này.

Trong suốt lịch sử của loài người, Thượng Đế đã gửi đến rất nhiều vị thầy. Từng ngày từng giờ Thượng Đế đều gửi đến chúng ta những thông điệp đầy vui mừng và hạnh phúc. Kinh Thánh đã được viết ra với sự sống thần thánh thật sinh động, để chúng ta có thể biết được một chân lý vĩnh cửu: Chúng ta và Thượng Đế là Một.

Loài người sẽ không có cơ hội để nâng nhận thức thấp kém của mình lên, chỉ cho đến khi nào mỗi người trong chúng ta tự mình nâng sự rung động bản thể lên đến mức độ vượt bậc so với hiện tại, đáp ứng phù hợp với sự tiến hóa chung của vũ trụ.

Những gì bạn suy nghĩ, thì bạn sẽ tạo ra. Những gì bạn sáng tạo ra, thì bạn sẽ trở thành. Những gì bạn trở thành, thì bạn sẽ thể hiện nó. Những gì bạn thể hiện, thì bạn sẽ trải nghiệm. Những gì bạn đang trải nghiệm, đó chính là bạn. Những gì mà là bạn, thì bạn tư duy. Một trải nghiệm trên vòng tròn đã hoàn tất. Chính bạn là nguồn gốc khiến bạn nhận thức được điều này, chính bạn là nguyên nhân khiến bạn phải bận tâm. Và hơn bao giờ hết, giờ đây bạn đang bận tâm về Bạn Thực Sự Là Ai? Thượng Đế là ai?

Thượng đế đã đưa con người vào dạng vật lý để Ngài có thể nhận biết và trải nghiệm Tự Thân Ngài. Cuộc sống tồn tại như một công cụ để Thượng Đế có thể biến khái niệm thành trải nghiệm. Nó cũng tồn tại để các con người chúng ta có thể làm điều tương tự. Vì con người chính là Thượng Đế đang thực thi mọi sự để sáng tạo Bản Thân Ngài nhiều thêm nữa trong cùng một thời điểm. Thượng đế đã sáng tạo ra Chúng ta, để các Chúng ta có thể sáng tạo lại chính Thượng Đế. Đây chính là công việc thiêng liêng. Đây là niềm hạnh phúc lớn lao nhất và là lý do tốt đẹp nhất cho sự hiện hữu của Chúng Ta.

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Luật của Một

Đây là bài mở đầu trong loạt bài về vũ trụ. Chúng tôi sẽ cố gắng truyền tải đầy đủ bức tranh toàn cảnh về bản chất của toàn bộ vũ trụ, sự vận động, sự sáng tạo và tiến hóa của nó, cũng như những luật tự nhiên chi phối sự sống. Và biết đâu bạn sẽ có được câu trả lời cho riêng mình về những vấn đề trong cuộc sống.

tat-ca-chung-ta-la-mot

The Law of One

"Luật của Một" - Được truyền xuống từ thời Ai Cập cổ đại bởi thần Horus, mình người đầu chim. Nội dung này khá cơ bản, đủ để giải thích một phần nhỏ về vũ trụ. Tất cả mọi sự sống, sự tồn tại và sáng tạo cùng là một thực thể có sự sống, chính là Thượng Đế.

Tất cả mọi thứ trong vũ trụ: Nhận thức, năng lượng, vật chất, nguyên tử, phân tử, ánh sáng, tình yêu, bóng tối, độc ác, thiện, cảm xúc, cuộc sống….đều là Một và hoạt động trong sự hoàn hảo của Thượng Đế. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản nhất: Tất cả ban đầu chỉ là Một và là nhận thức đầu tiên, ý thức về sự tồn tại của chính nó. Ý thức này muốn trải nghiệm tất cả các mặt của nó, vì vậy mà phân chia ý thức mình ra nhiều mảnh nhỏ hơn để trải nhiệm và truyền kiến thức các trải nghiệm đó về Nguồn.

tat-ca-la-mot

Tất cả mọi thứ trong vũ trụ đều là năng lượng rung động ở các tần số khác nhau trên trường năng lượng nguồn, hay trên thân thể Thượng Đế. Ta có thể tưởng tượng toàn bộ vũ trụ như một đại dương vô tận, các cơn sóng chính là năng lượng rung động này. Điều này có nghĩa là tất cả chúng ta là Một, các bản ngã chỉ là những phần của thượng đế đang trải nghiệm chính mình với tất cả các mặt của sự sáng tạo. Không có một thứ gì trong vũ trụ này là không có ý thức: Đất, nước, gió, đá, cỏ cây, nhà cửa, bàn ghế,...đều có ý thức riêng của nó, đi cùng đó là các mức độ tiến hóa khác nhau của ý thức.

Với nhận thức của Thượng Đế thì Ngài không có cái gọi là thời gian hay là không gian.

Tất cả đều là rung động

Chúng ta đều là năng lượng rung động với các tần số khác nhau, nên mọi thứ trong vũ trụ hoạt động theo nguyên tắc của sự dao động, và điều đó sinh ra khái niệm tiếp theo: Chu kỳ. Là khoảng thời gian giữa hai lần lặp lại liên tiếp của một sự việc, hay thời gian để kết thúc một vòng quay, một chu trình.

Vũ trụ có chu kỳ của vũ trụ, giãn ra và thu vào, có thể gọi là hơi thở của sự sáng tạo. Các hạt cơ bản cũng có chu kỳ, electron quay quanh hạt nhân với một tần số xác định.

Ánh sáng cũng có chu kỳ với công thức E=hf.

Dải ngân hà chúng ta cũng có chu kỳ đi quanh các cụm thiên hà.

Mặt trời cũng có chu kỳ quay của nó trong giải ngân hà, với chu kỳ ngắn nhất khoảng 26000 năm. Điển hình là năm 2012 vừa rồi kết thúc 1 chu kỳ và mở ra một chu kỳ mới.

Hành tinh chúng ta có ngày và đêm, có các mùa trong năm khi quay quanh mặt trời và mặt trăng.

Và chu kỳ cơ bản nhất của con người chính là hơi thở!

Các chu kỳ đều là hoạt động tự nhiên của vũ trụ, vì vậy không nên nghĩ là Thượng Đế hay thần linh là tà ác, luôn canh chừng để trừng phạt hay luôn xen vào chuyện của các sinh linh. Chẳng khác nào Ngài tự giới hạn chính bản thân mình trong các trải nghiệm. Ngài không giận dữ như những mô tả của con người về trận đại hồng thủy. Đó chỉ là hoạt động của luật nhân quả, sự đối ứng của năng lượng. Có nghĩa là những rung động thấp sẽ được biểu hiện dưới dạng các thiên tai hoặc những hiện tượng con người cho là sự giận giữ của thiên nhiên, trong khi chính họ là nguyên nhân trực tiếp gây ra và đến lúc năng lượng phản hồi lại dưới các dạng thiên tượng thì lại than trách vô cớ. Điều này lại gây tích tụ thêm năng lượng tiêu cực, và sẽ kéo dài mãi nếu con người không sớm tỉnh ngộ.

23h59p: Thay đổi để được đi tiếp cùng Trái Đất

di-tiep-cung-trai-dat

Khi quá tập trung về quá khứ hoặc lo nghĩ về tương lai, chúng ta sẽ không đi cùng dòng chảy của vũ trụ, điều đó tạo ra nhiều xung đột, rối loạn trong nhận thức cũng như cuộc sống. Con người không nên vướng mắc vào bất kì thứ gì trên dòng thời gian mà hãy tập trung tất cả năng lượng của mình cho thời điểm hiện tại.

Hiện nay, Trái Đất đang ở thời điểm cuối cùng của chu kỳ, như thời điểm trước khi bước qua ngày mới. Thời gian không còn nhiều, các thông điệp đã liên tục được gửi đến trong suốt chiều dài của lịch sử của chúng ta. Trước khi các luật của vũ trụ thực hiện công cuộc làm sạch Trái Đất, chúng ta phải thay đổi về nhận thức và hiểu rõ tiến trình của vũ trụ. Và với những sinh mệnh đã và đang tìm về nguồn cội của chính mình, có nhận ra được thông điệp, có thấu hiểu, có tìm cách nâng cao rung động của mình và hướng dẫn các anh em khác kịp thời hay không. Để được đi tiếp cùng Trái Đất.

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2020

Điểm chung của các tôn giáo

Ý tại ngôn ngoại

Ngôn từ là khái niệm mô tả sự kiện giúp hiểu nghĩa bên ngoài thôi nên chỉ thuộc về tục đế, những biểu hiện “vô ngôn” đằng sau mới thực sự toát ra sức thuyết phục mạnh mẽ. Như khi đức Phật thuyết thị, Ngài nói bằng mắt, bằng âm điệu, bằng cử chỉ, bằng năng lực ba-la-mật, bằng đức từ bi, trí tuệ v.v… hơn là những gì Ngài nói ra. Đó là chưa kể về phía người nghe cần có căn cơ trình độ chín mùi, thái độ tiếp nhận trong sáng, tích cực, bối cảnh thực tế hợp tình hợp lý thì mới giác ngộ được.

Tiếc thay khi kết tập lời dạy của đức Phật người sau chỉ ghi nhận được bằng một phần ngôn từ tóm lược đại ý, không thể phản ánh trung thực Sự Thật trong toàn bộ sự kiện ẩn tàng đằng sau ngôn từ ấy. Đó là chưa kể hàng hậu bối còn chú giải, nghị luận làm cho có vẻ dễ hiểu hơn nhưng thật ra chỉ rắc rối phức tạp ra. Vì vậy, trong một pháp thoại, năng lượng là chính chứ không phải ngôn từ. Cùng một lời nói phát ra với lòng từ bi khác xa với tâm sân hận, đó là sức mạnh của năng lượng truyền tải.

Có chuyện chùa thầy nọ có hai con chó, một con đến giờ tụng kinh đều lên chánh điện nằm nghe, một con đến giờ thuyết pháp là chạy đến giảng đường chờ trước. Chúng không nghe tụng gì hay thuyết gì nhưng hưởng được năng lượng từ những môi trường đó.

Không chỉ trong đạo Phật, các bí pháp Tiên gia cũng chú trọng đến năng lượng hơn là chữ nghĩa. Họ chia con người gồm ba phần: Tinh - Khí - Thần. Tinh biểu hiện dạng vật chất thô, Khí là dạng vật chất tế và Thần là một năng lượng siêu thể. Từ cõi Vô Cực, biến thành Thái Cực, rồi sanh lưỡng nghi, từ lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng lại biến hóa vô cùng. Nghĩa là từ vô hình sanh ra hữu tướng là một dạng xuống cấp đưa đến kiếp sống bể dâu, vậy nên Đạo gia chủ trương Vô Vi là trở lại thể tánh vô hành an nhiên. Trong các pháp luyện Đan, luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, tức là trở lại vô cực. Trở lại với chân tính uyên nguyên khởi thủy, từ vật chất Thô tiến về Tế và vượt thoát siêu nhiên.

hindu than an do

Mọi diễn tiến trong đời sống diễn ra một cách khách quan theo quy trình Thành Trụ - Hoại - Không, vì thế cổ nhân xem thế gian vốn vô sự. Chọn cuộc sống vô vi tịch tịnh làm niềm vui mà tiến hóa, tĩnh lặng mà hấp thu năng lượng của trời đất để trở về chân tính - Đạo, một quan niệm sống của người xưa Á Đông. Hầu hết các pháp của thiền gia và Tiên đạo đều dụng tâm tác ý, biến thân pháp thành tâm pháp, biến tâm pháp thành Đạo lực, một sức mạnh siêu nhiên mà không một lực vật chất nào có thể so sánh. Ví dụ, trước một cộng nghiệp như hạn hán, thiên tai, một chân sư, minh sư Bồ Tát hay thiền sư đắc đạo có thể hoán chuyển ngăn chặn, nhưng thường các ngài không muốn can dự vào luật nhân quả của chúng sanh mà chỉ hướng dẫn để tự thân chúng sanh chuyển nghiệp. Đây cũng là tôn chỉ trong Raki, tu tập vận hành năng lượng vũ trụ để tự chữa bệnh.

Rung động

Những thời kỳ nhân lọai tiền sinh, sử dụng năng lực từ sự rung động trong tư tưởng, ý niệm đã một thời lưu lại trên hành tinh chúng ta. Thời đại của chủng tộc Lemuri - Atlantic là một trong những kỷ nguyên văn minh của hành tinh. Họ có những thiết bị bay do năng lực từ sự rung động năng lượng, biết xử dụng năng lực tâm linh để xây dựng các Kim tự Tháp....Chất xám bấy giờ đang ở đỉnh cao của khoa học tâm linh, chưa thiên hướng về vật chất như khoa học ngày nay. Vào thời kỳ đầu của chủng tộc Lemuri, tức người viễn cổ, phát âm bằng mũi, không chỉ phát tầng âm bình thường mà còn ở tầng sóng siêu âm và sóng hồng ngoại, do vậy, năng lực của cổ nhân là bất khả tư nghì.

Trong lãnh vực khoa học hiện đại, tuy chưa phát triển bằng nền văn minh Kim Tự Tháp, Angkor, Nhân sư…cũng đã sử dụng sóng từ để điều khiển, kích hoạt như quang tuyến, Laser trong y học, quân sự, không gian và tiện nghi đời sống, bộ điều khiển cầm tay sử dụng trong gia đình cho máy móc…tất cả đều xử dụng dưới dạng sóng âm mà thường gọi cảm ứng điện từ. Từ những sóng âm, khoa học có thể điều khiển hoặc phá hủy một vật cách xa trên mặt đất như phá hủy một vệ tinh nhân tạo trên không trung.

Bàn tiếp về rung động của định lực, một dạng năng lượng siêu nhiên, sức mạnh hội tụ mà không có một khí cụ vật chất nào sánh được. Một khi hội tụ được năng lực do khổ công tu luyện, ý lực khởi xuất thường từ trung khu thần kinh, tác động, hướng đến mục đích, biến thành bước sóng năng lượng như máy phát điện hay trung tâm truyền thanh phát tín hiệu dưới dạng sóng. Mở trúng tần số, máy sẽ nhận được tín hiệu âm thanh, hình ảnh. Khác với khí cụ, ý lực của có thể phát tán và thu hồi tùy ý, khởi phát đến bất cứ nơi đâu đều không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thường ý lực được truyền đi dưới dạng rung động tích cực, nên ánh mắt của các vị chân sư luôn đượm vẻ trong sáng, tràn đầy tình thương và nghị lực. Trước sức mạnh tâm linh này, đa phần đối tượng thường dể bị cảm hóa và quy phục.

Chẳng hạn có câu chuyện nói về việc cảm hóa chàng Vô Não giết đủ 100 người để được thầy truyền pháp, Đức Phật là người cuối cùng mà Vô Não gặp được, nhưng cũng là người được Đức Phật chuyển hóa từ ác sang thiện bằng ý lực siêu nhiên của bậc giác ngộ. Trường lực của sự dao động bởi lòng từ bi, tình yêu thương vô hạn đến nhân loại tạo cho bầu sinh khí chung quanh thoải mái, nhẹ nhàng. Một hành giả có nội lực uyên thâm, càng tạo một cảm giác an ổn cho người chung quanh hoặc cho vùng ngài đang hiện diện. Ngồi gần một bậc có năng lực như vậy, mọi tâm tư thắc mắc của ta đều được hóa giải như khối đất khô bị tan loãng bởi nước, cho dù không được các ngài dẫn giải một điều gì, nhưng chắc chắn chúng ta có nhiều lợi ích khi gần các ngài và luôn thích gần các ngài.

Vào một ngôi nhà hay đến một ai, bầu không khí sáng mát nhẹ nhàng, biết rằng sinh khí nơi đó thấm đượm tâm thiện, ngược lại một nơi có có vẻ u ám, ngột ngạt khó chịu, không muốn ở lâu, nơi đó đang tích tụ ám khí của tần số thấp, ma lực. Như vậy Phật lực, Thánh lực và Ma lực đều có những tâm thái thông qua trường lực khác nhau, trực quan chúng ta có thể phân biệt dễ dàng. Người có tâm lực mạnh, được nhiều người ái mộ quý mến.

Năng lượng

Các chấn động lực của vũ trụ luôn ẩn tàng và hiển lộ, như tầng sóng ngầm dưới đáy đại dương. Một Big Bang khởi động luôn có chấn động lực đi liền với ánh sáng và khối lượng phát tán, đó là khởi nguyên của vũ trụ. Nói theo nhà thần học Chardin là tiềm lực tiền sinh, nhưng tiềm lực tiền sinh này không phải một quyền năng toàn diện và hoàn hảo mang tính chỉ huy, mà là dạng tiềm lực tiền sinh sơ đẳng nguyên tính để rồi hàng tỷ năm đúc kết kinh nghiệm mà đa dạng sự sống. Vì vậy sinh mệnh đầu tiên là nguồn sáng, chưa có thân vật chất nên không bị chướng ngại.

Theo kinh tạng Phật giáo, con người đầu tiên xuất hiện trên tinh cầu này là một quang thân, do nếm thử đất thơm của quả địa cầu vừa hình thành nên mất thần thông, có nghĩa khi khởi ý tham, trí tuệ liền bị gián đoạn. Điều này không phải là sự trừng phạt vì không hề có chủ thể hay đối tượng, đây chỉ là kết quả từ quy luật của vũ trụ. Một cái "nhân" sẽ tạo một cái "quả" lòng ham muốn không được thỏa mãn sẽ tạo đau khổ. Dù được thỏa mãn, nó sẽ tạo nên những ham muốn khác nữa cho đến khi không thể thỏa mãn. Sự đau khổ luôn luôn gia tăng theo đà ham muốn, càng ham muốn nhiều thì khổ đau càng lớn. Hiển nhiên tình trạng này không kéo dài mà sẽ chấm dứt ngay khi sự ham muốn không còn nữa.

Vì sao có sự tha hóa?

Sinh mệnh đầu tiên trong vũ trụ mang thân ánh sáng, là những sinh mệnh thuần khiết, vô nhiễm. Qua hàng triệu năm những chu kỳ thánh đức ra đời, những năng lượng xấu xuất hiện, tạo thành lực lượng đối trọng với năng lực thánh đức, thu hút những quang năng tương thích lập thành vật chất đen, tiêu cực. Có khuynh hướng đi xuống, xa dần năng lượng tinh khiết ban đầu, trong các tôn giáo gọi là ma quỷ. Cũng có những lực lượng bị đen tối, bởi những sự bất toại, thề nguyền trong cuộc sống. Khó giải thoát và luôn ở trong trạng thái trả thù hoặc yểm trợ kẻ cùng thiên hướng có chung tần số. Và những quang năng trong suốt đó đã trở thành ô trược nặng nề.

Như đã đề cập ở trên, khởi nguyên vạn vật là nguồn sáng thuần khiết. Quá trình vận hành, trao đổi của các sinh mệnh ánh sáng trong hàng tỷ năm biến vũ trụ thành nhiều dạng ý thức và tâm thức đa chiều. Vì vậy sự cảm nhận và ý thức cũng sai biệt ở một trình độ sai biệt nhất định. Tín ngưỡng khởi nguyên không là tôn giáo hay thần thánh, mà là năng lượng rung động ở thể vô cực hướng đến trí tuệ và sự sáng tạo. Dấu ấn của nó vẫn còn lại phảng phất nơi các tôn giáo cổ và nhất là Phật giáo. Tuy Phật giáo ngày nay đã xuống cấp như một tôn giáo đáp ứng trình độ nhân loại bị tha hóa nhưng tinh túy vẫn hướng con người khôi phục sáng trí tuệ. Mỗi ngày, con người khai triển một tín ngưỡng mới lạ, không những ở đất nước chậm phát triển mà ngay cả trên xứ sở văn minh, không thiếu những tôn giáo cuồng tín, phản khoa học.

Hoặc kẻ phát minh cảm ứng một tín hiệu sóng âm được gọi là ơn soi sáng, dẫn dắt. Hoặc như cầu cơ của đạo Cao Đài, hoặc các tiên tri của thần giáo, hoặc cải biên từ một tôn giáo đi trước như Tin Lành. Cũng có thể phát xuất từ một ý thức chính trị hoặc triết lý nhân sinh như đạo Khổng...

Một số giáo phái cuồng tín phản khoa học xuất hiện khắp nơi trên các quốc gia văn minh như giáo phái mặt trời ở Nhật, nhánh Tin Lành ở Nam Triều Tiên tin ngày tận thế, một nhóm Hồi giáo cực đoan…Tất cả những dạng này có chiều hướng đi xuống bởi lực ly tâm, rời xa bản chất của vũ trụ, chiêu cảm các dạng năng lượng tiêu cực tối tăm. Vì vậy ánh sáng trí tuệ bị ám đục, thiên hướng ma lực.

Và rồi các sinh mệnh vô minh phân chia chính các anh em của mình thành những danh từ không thể nào tươi sáng hơn:

Ma, quỷ, đồng cốt: Thuộc dạng tần số thấp, chiêu cảm những tần sóng âm hạn hẹp và tối, bị ẩn uất trong cõi trung giới.

Bóng rỗi, đình miếu: Thuộc tâm năng tiết khí trung liệt chiêu cảm sóng âm cực đoan, nóng nảy của các Atula.

Tứ phủ: Những tâm năng ra khỏi thần lực nhưng chưa phát triển thánh lực.

Thầy mo, phù thủy, thầy pháp…là những tay thợ nắm phương thức chiêu dụ các sinh mệnh ở rung động thấp. Vì lực lượng âm mà họ sử dụng sai khiến chưa thoát khỏi ách tắc tâm lý khi bước sang thế giới vô hình.

...

Con đường ý nghĩa

binh minh

Cách giải thoát của đạo Phật là giải thoát khỏi sự ràng buộc những bất toàn trong cuộc sống tăm tối. Tìm lại sự tự do tuyệt đối như chư Phật đã thể hiện trong các quang thân trong sáng. Chẳng hạn đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni có sự sáng chói của ánh sáng vàng kim.

Đây là một sự thật chứ không phải một mô tả cường điệu vì sự sùng kính. Các nhà nhân chủng, khảo cổ, sử gia thế giới đã tìm đâu đó một lịch sử nhân loại thuở khởi nguyên có những quang thân năng lượng như vậy. Bác sĩ giải phẩu người Nga E-Rơ-Nơ Mun Đa Sép, từ một nghiên cứu khoa học duy vật trong thế kỷ XXI đã vô tình chạm phải ranh giới khoa học tâm linh. Nơi đó sự thú vị lẫn kinh ngạc trước cái vĩ đại khó lường của năng lực tâm linh, để rồi chính tự thân bác sĩ cùng đoàn khoa học gia phải xác nhận những kiến thức hạn hẹp của mình giữa cái vô tận mầu nhiệm của kiếp người. Nơi đó, các Lạt Ma, đạo sư, những chủng tộc văn minh cực điểm của loài người hàng triệu năm trước còn lưu xác như một quỹ Gen cho nhân loại khi loài người bị hủy diệt cũng như đã từng bị hủy diệt.

Không phải vô tình mà các tôn giáo khởi xướng tâm linh, vì tâm linh quyết định hữu hiệu những hạn chế mà khoa học vật chất không thể chu toàn, cái cơ bản của tôn giáo là tâm linh. Các tôn giáo lớn, nếu loại trừ những lễ nghi, tập quán xã hội thì có một điểm chung là nâng cao tâm thức. Mỗi tôn giáo có mỗi phương cách thanh tẩy tâm linh, mỗi pháp hành một giá trị nhất định. Đều hướng về năng lượng tinh thần. Ánh sáng trí tuệ không phải là một cách biểu đạt tượng trưng mà là đặc trưng. Vì trí tuệ là ánh sáng tâm linh, một trong những năng lượng nguyên thủy của vũ trụ từ lúc hình thành. Con người có khuynh hướng tha hóa, ly tâm, đi xuống chốn sai lạc, bất toàn và khổ đau. Nên tôn giáo có bổn phận giúp đỡ, hồi tỉnh, thoát ly cái phiền trược thể chất, phục hồi giá trị năng lượng sinh học và tinh thần của các cá thể để họ được hòa nhập với vũ trụ.

Vì con người là tế bào của vũ trụ, việc tìm lại thế cân bằng với vũ trụ sẽ đưa con người tiến đến thời đại phát triển tột đỉnh của kỷ nguyên sáng tạo và chỉ sáng tạo tích cực trong sự phát triển của vũ trụ - thiên ý của Thượng Đế.

Xem thêm các bài viết khác tại: https://www.thientaisinh.com/category/bai-giang-raki/thuong-de/

Thứ Hai, 11 tháng 5, 2020

Hành trang vào thế giới mới

Tâm tỉnh thức, sẽ không sợ hãi

Hãy tin tưởng mãnh liệt vào các quy luật phát triển tự nhiên của thế gian. Vì những gì đang đến cho bạn, một chúng sinh đang tồn tại tại đây, không còn quan trọng nữa. Đối với bạn, cuộc sống không còn là nỗi lo âu và bận tâm nữa. Cho dù điều gì xảy ra đi nữa thì cái tốt nhất, cái xấu nhất, lời khen, tiếng chê, thành công, thất bại, bị ung thư máu, cưới được người yêu cũ hay được khỏe mạnh đến năm 100 tuổi và bình yên từ giã cõi đời này trong tư thế thiền định. Thì bạn hãy tin tưởng rằng các quy luật vũ trụ sẽ diễn biến theo cách tự nhiên của nó và chúng ta nên chấp nhận điều này như là cái gì thật và tự nhiên. Hãy xem mọi việc xảy ra như là chân lý thay vì tìm cách diễn giải và cho nó một tính chất cá nhân riêng lẻ.

Trong đạo Phật thường nói về lòng dũng cảm và tinh thần vô úy. Bất cứ lúc nào chúng ta có cái nhìn cá nhân riêng lẻ, chắc chắn chúng ta sẽ sợ hãi, và trở nên nhút nhát.

Con người thường nghĩ: "Tôi sẽ đau khổ. Tôi sẽ mất đi những gì tôi thương yêu. Tôi sẽ đau yếu, trở thành một người tàn tật, chịu nhiều đau đớn. Mọi người đều ghét bỏ tôi, và tôi sẽ bơ vơ một mình. Cuộc sống sẽ trở thành kinh hoàng. Tôi sẽ lạc loài, cô đơn, không tình thương, đau đớn, già nua và bệnh tật, ôi tội nghiệp cho tôi quá!"

Số phận như thế quả thật đáng sợ. Nhưng khi những lo sợ này được quan sát như là các quy luật tự nhiên, đến rồi đi, thì ngay cả cái gì ghê gớm và kinh khủng nhất chúng ta cũng có thể chịu đựng được. Con người và hoàn cảnh của chúng ta hiện nay chỉ là tạm thời. Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa sự sinh và sự chết của tấm thân làm người này. Như thay một chiếc áo đã cũ. Và trong quá trình chuyển tiếp giữa sự sinh và sự chết này, những gì chúng ta có được chính là cơ may để giác ngộ. Thế thì cái gì là bản chất thật sự của tôi?

Đó là sự bình yên, trí tuệ, thanh thản, bình tĩnh, và trong sáng. Chỉ có sự thấy và biết, chỉ có sự trong sáng rõ ràng và không có cái gì là thuộc cá nhân cả. Tâm tỉnh thức này không là của tôi, nó cũng không phải là của bạn. Khi chỉ có sự trong suốt, trí tuệ, và rạng rỡ, thì lúc đó chúng ta có thể gọi đó chính là "chủ thể thật sự" - Thượng Đế.

Vô vi nhi vô bất vi

Tạm dịch là "không làm gì mà không gì là không làm" Hiểu một cách nôm na là, nếu bạn không làm gì mà thấy không việc gì thì không nên làm. Thiên nhiên trời đất vốn đã vận hành thành chu kỳ tự nhiên, nếu chúng ta tác động vào một yếu tố nào đó thì cũng là làm đảo lộn chu trình trên. Nếu chúng ta không làm gì cả thì tức là đảm bảo được chu trình trên vẫn hoạt động bình thường.

Thuyết này đặc biệt hiệu quả trong trường hợp chúng ta chưa biết phải làm thế nào khi đứng trước một sự việc, theo Lão Tử thì tốt nhất là không nên làm gì cả!

Vô vi không có nghĩa không làm gì, nhưng để sự việc phát sinh một cách tự nhiên trong sự hòa hợp với Đạo. Và vì vậy cần thực hiện những gì cần thiết, nhưng không vượt quá nhiệt tình và hành động mù quáng, được coi là một trở ngại, mà là dễ dàng, nhẹ nhàng và thoải mái. Là một trạng thái của sự im lặng nội tâm, vào đúng thời điểm, hành động đúng có thể xuất hiện mà không cần nỗ lực của ý chí. Là sự mách bảo của trực giác một khi đã tỉnh thức, việc gì cần sẽ có sự thôi thúc phải thực hiện.

Ví dụ như khi chứng kiến cảnh con hổ vồ con hươu để ăn thịt, nếu chúng ta bắn chết con hổ để cứu con hươu thì chúng ta đã có thể giết hại cả đàn hổ con đang ở nhà chờ miếng ăn của hổ mẹ. Nếu chúng ta giúp con hổ bắt con hươu dễ dàng hơn thì lại có lỗi với con hươu. Nếu chúng ta cứ để cho sự việc xảy ra tự nhiên thì là phải đạo nhất. Nhưng làm sao để biết việc đã, đang hoặc sẽ xảy ra sẽ "không việc gì"?

Hãy thả lỏng

hay tha long

Càng buông bỏ những ràng buộc trong cuộc sống, và khi nhận ra rằng tất cả những gì sinh ra đều hoại diệt thì bạn sẽ thấy được cái sự vô vi, nghĩa là các quy luật vũ trụ không bị giới hạn bởi những nhân duyên của thế gian.

Theo đạo Phật, có pháp hữu vi và pháp vô vi, pháp duyên khởi và pháp vô sinh. Bạn không thể dùng tư duy để hiểu pháp vô vi hay pháp vô sinh. Dù cho bạn có thể dùng tên gọi nhưng bạn không thể nhận biết nó. Vì không có biểu tượng tôn giáo hay ngôn ngữ nào có thể dùng để hiểu được. Nhưng bạn có thể xây dựng một giáo thuyết về nó, vì thế các tôn giáo thường dùng những giáo thuyết siêu hình để diễn tả và làm cho người ta tin vào đó. Tuy nhiên, vì giáo pháp của Đức Phật không phải là một học thuyết siêu hình. Ngài khuyên chúng ta nên tự mình chứng ngộ. Vì thế trong đạo Phật, không có một giáo thuyết siêu hình nào cả, và sự vắng mặt của giáo lý siêu hình này chính là nhân tố thuận lợi thúc đẩy bạn đi đến chứng ngộ thật sự. Sự chứng ngộ sẽ giúp bạn hiểu rằng thế giới hữu vi sinh rồi diệt. Nó không vĩnh cửu và vĩnh cửu, rất giới hạn nhưng cũng vô tận. Nó chỉ là những thay đổi, chuyển động hay rung động trong vũ trụ bao la này.

Dùng thuật ngữ và khái niệm để mô tả sự chứng ngộ có thể làm chúng ta hiểu sai vấn đề. Đã từng có các cuộc trao đổi với các tín đồ Ky Tô giáo, và nhận thấy những hành giả Ky Tô giáo đang tiến gần đến các hành giả Phật giáo. Và họ đã phát biểu những điều gần như đi ngược lại với truyền thống tôn giáo của họ như "Thượng Đế là không hay Thượng Đế không là cái gì hết". Đối với người Phật tử, có lẽ khái niệm "không là cái gì hết" mô tả khá chính xác khái niệm Pháp vô vi hay Pháp vô sinh trong đạo Phật. Ngược lại, Ky Tô giáo theo truyền thống ba ngôi thường mô tả Thượng Đế như vừa là Cha, Con, hay Thánh Thần. Ky Tô giáo theo truyền thống thần bí thì vượt lên trên khái niệm ba ngôi và nói về tính chất huyền bí hay điều không thể hiểu được trong kinh nghiệm chứng ngộ của họ. Những tín đồ Ky Tô giáo theo truyền thống thần bí không có cùng ngôn ngữ tâm linh của đạo Phật, nên họ diễn tả theo cách khác.

Nhưng nếu bạn vượt qua biên giới của ngôn ngữ, quên đi các kiến thức về tôn giáo đã cố hữu trên Trái Đất này, bạn sẽ thấy sự chứng ngộ là những kinh nghiệm xảy ra khi tâm thức không còn bị chi phối bởi cái ngã, và không còn tùy thuộc vào thế giới hữu vi.

Dính mắc vào nguyên tắc và truyền thống luôn là điều nguy hiểm. Ngay cả trong đạo Phật, mặc dù những lời dạy của Đức Phật là đẹp và trong sáng biết bao, nhưng ít người chịu tu hành theo những lời dạy này để được giác ngộ. Họ thường bị dính mắc vào một bộ phận nào đó của giáo lý.

Một tâm hồn đẹp

Có một câu chuyện về một vị thiền sư: "Khi ngài ấy tĩnh tại trong rừng một thời gian dài, ngay cả không có sách làm bạn (điều khó nhất đối với vị thiền sư ấy), ngài vẫn giữ định tâm lúc đó. Như thế, tâm ngài trở nên rỗng rang và thinh lặng… nó nở ra.. và trở thành tự do. Ngài quên ngay cả chính bản thân. Và bất chợt có sự cảm tưởng như là liên đới với toàn thể vũ trụ. Ngài sống trong thế giới, sống trong vũ trụ, ngài cảm thấy gắn bó với cây, chim, thú, động vật, với mọi người, với trăng sao. Đó là kinh nghiệm rất mạnh mẽ trong đời của ngài".

hanh trang

Thời nay, nhiều người cảm thấy ngày càng biệt lập. Họ không cảm thấy liên đới, ngay cả với những người trong gia đình. Nhưng khi cảm nhận được sự liên đới với toàn thể vũ trụ, sẽ không cảm thấy cô đơn chút nào. Sự thực là tâm thức con người đang dần được khai mở và người có trí tuệ ngày càng nhiều trên thế giới. Mặc dù thỉnh thoảng, tin tức báo chí về tình hình thế giới là rất đen tối và bi quan, tuy vậy hãy nên cảm thấy lạc quan vì con người đang có sự đổi thay. Chỉ trong kiếp sống này thôi, tất cả sẽ chứng kiến được sự lột xác và phát triển vượt bậc trong sự hiểu biết về tâm linh và trí tuệ của con người, đứng lên trên tất cả truyền thống và nguyên tắc tôn giáo.

Để vượt qua cô đơn, hãy sống trong từng giây phút, chuẩn bị một tâm hồn đẹp để đến được vũ trụ ngay trong chính mình. Định tâm sẽ làm cho bạn mạnh mẽ lạ thường và phát huy được năng lực từ sâu thẳm bên trong.

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Đường về nhà

 Bước đi đầu tiên


buoc dau tien hay roi xuong
Bạn đang hiện hữu ngay bây giờ, bạn biết điều đó, bạn đang ở đây và ngay tại giây phút này, cái Ngộ đầu tiên xảy ra.
Tâm bạn đang tan chảy như một tảng băng tuyết lạnh lẽo. Nếu bạn buông xả và tự nhiên, chân thực với giây phút hiện tại, chân thực với bây giờ, ở đây và ngay tại giây phút này, tâm sẽ tan chảy. Bạn đang cho phép năng lượng vũ trụ đi vào, mạnh mẽ và bao la. Chính vì tự tánh hiện diện trong thực tại, và hiện tại đang duy trì một năng lượng bao la. Bạn không vận hành trong tương lai, bạn cũng không vận hành vào quá khứ. Bạn đang sở hữu một năng lượng mãnh liệt trong bạn, rằng năng lượng đó đang khởi sự tan ra thấm nhập vào trong tâm.
Năng lượng là ngọn lửa. Khi bạn không còn vận hành vào bất cứ nơi chốn nào nữa, hoàn toàn tịch lặng, bây giờ và ở đây, không chuyển động vào bất cứ nơi chốn nào, chỉ nhất nhất đồng quy về chính bạn. Mọi kẻ hở chấm dứt, bởi kẻ hở phát sanh từ tham ái và sở cầu, bởi tương lai và bởi động lực. “Hãy làm điều này. Hãy làm điều nọ. Đừng phí phạm thời gian. Hãy di chuyển. Hãy ...” Vì vậy, có lỗ hổng.
Nếu bạn là vòng tròn của ngọn lửa thì tảng băng tuyết của tâm sẽ tan ra. Sẽ thấy tâm vọng động như suối đổ và mọi sự đều sụp đổ, toàn bộ tâm sụp đổ. Có lẽ bạn sẽ sợ hãi. Gần sự Ngộ đầu tiên này, Minh Sư luôn có sự cảm thông sâu sắc, bởi Ngài sẽ dạy bạn “Đừng sợ hãi. Thật là vi diệu. Hãy rơi xuống
Chỉ từ ngữ “rơi xuống” thôi, sự sợ hãi đã hội nhập. Bởi sự rơi xuống có nghĩa là rơi vào vực thẳm, đánh mất mảnh đất bằng, bạn đang vận hành vào chốn bất khả tri, tối tăm và mịt mù. Sự rơi xuống mang theo một cảm giác chết... hành giả đâm ra sợ hãi. Bạn có bao giờ leo núi qua chưa? Đỉnh cao nhất, từ đó bạn nhìn xuống vực thẳm, bạn muốn nôn ói, run rẫy và sợ hãi. Sự sợ hãi rơi vào vực thẳm như là một cái chết. Bạn rơi vào nó. Khi tâm tan chảy, mọi sự bắt đầu tan biến. Mọi sự hiện hữu bỗng bắt đầu buông xả và rơi xuống, như căn nhà đang bị sập xuống vỡ tan từng mảnh. Bạn trở nên hỗn loạn, không còn trật tự, mọi kỷ luật tan vỡ và bạn cố gắng tự chủ chính bạn. Những gì bạn cưỡng ép và đè nén sẽ đồng nổi bọt lên sùng sục lên trên bề mặt. Ta đang đi qua tiếng lòng sâu thẳm trong tâm. Chỉ khi bạn biết thực tại, thả lỏng và rơi xuống.
Giai đoạn đầu tiên thật khó mà vượt qua. Bất cứ những gì xã hội cưỡng ép hoặc chính bạn tự đè nén trên bạn đồng rơi rụng, bất cứ những gì bạn đã học hỏi đồng tan chảy, bất cứ những gì bạn đã điều kiện hóa chính bạn cũng đồng sụp đổ. Tất cả mọi thói quen mọi chiều hướng mọi con đường Đạo đồng biến mất. Sự đồng hóa sẽ bốc hơi. Bạn sẽ không có khả năng để nhận biết bạn là ai. Đến giai đoạn này, bạn không còn nhận biết bạn là ai: Gia đình, quyền lực, danh vọng, danh dự của bạn trong thế gian, bạn nhận biết chúng, bây giờ, đột nhiên, tất cả đồng tan biến. Bạn nhận biết nhiều thứ, nhưng trong hiện tại, bạn không nhận biết gì hết. Bạn đã từng thông thái với hằng muôn triệu cách thông thái của thế gian và bây giờ mọi sự thông thái đó đều đang rơi rớt như lá rụng. Và bạn cảm giác bạn như hoàn toàn vô minh. Điều này đã xảy ra với Socrates. Đây là giây phút Ngộ đầu tiên của ông trong câu nói nổi tiếng “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả" (scio me nihil scire)
Minh Sư sẽ bảo bạn “Đừng sợ hãi hởi con”. Người có thể khuyên bạn nên dễ dãi để mình rơi xuống. Hãy cho phép điều đó xảy ra. Đừng bám víu vào bất cứ cái gì, bởi nó sẽ làm chậm trể khoảnh khắc này. Hãy rơi xuống ngay!
Nếu giai đoạn Ngộ thứ nhất này đã chu toàn tốt đẹp, sẽ có một trật tự mới nữa phát sinh từ nội tại, phát nguồn qua tự tánh của bạn. Hiện tại, trong bạn không còn xã hội, không còn sự đặt để bởi người khác. Không còn sự giam cầm. Một trật tự mới phát sinh với một phẩm chất tự do và siêu việt. Đây là sở hữu của riêng bạn. Không còn một ai đòi hỏi bạn. Không còn ai sẽ bảo “Hãy làm việc này... Hãy làm việc kia...” Bạn đơn thuần chuyển hoá
“Khoảng thời gian sau, tâm sẽ hiền hòa,
Và êm dịu như dòng sông…”
Sự vấp váp, tiếng thác đổ đã chấm dứt, bạn không còn vọng động nữa... Bạn trở thành một dòng sông, trôi chảy hiền hòa, thậm chí không một âm thanh vang động. Bạn bước đi nhẹ nhàng như một chú nai, thinh lặng và cao nhã. Một sự quyến rũ mới mẻ xảy ra trong tự tánh của bạn, một trạng thái tràn đầy ân huệ và cao quý.
Khi bạn đã đạt đến quả vị thành tựu bằng tâm vô sở cầu, bạn không còn tìm kiếm đến bất cứ mục tiêu gì nữa. Bạn không vội vã, không gấp rút. Bạn chỉ thưởng thức và tận hưởng mỗi giây phút

Và êm dịu như dòng sông

em diu nhu dong song
Kinh nghiệm thứ hai này mang đầy tính chất tuyệt đối, tĩnh lặng, vắng bặt, tự tại, hài hoà, tịnh tĩnh, tập trung, an lạc, yên nghỉ, thoải mái:
“Và cuối cùng, tâm như đại dương bao la
Mọi ánh sáng của con và Mẹ, hợp lại thành Một...
Như trăm sông đổ vào biển cả...”
Đột ngột, nguồn nước trở nên êm dịu như dòng sông, cuối cùng cũng đến được vùng đại dương xanh thẳm mênh mông, bao la trong vô hạn và vô biên giới. Bây giờ, nguồn nước không còn là một dòng sông nữa, mà đã trở thành là Một với biển rộng. Nguồn nước không còn là một cá thể, và không còn tự ngã nữa.
Dòng sông đang ngự trị trong nguồn nước của đại dương. Nó đã trở thành một với biển cả, hoàn toàn vô biên giới và cá nhân tính đã không còn hiện diện. Một chân Tánh hiện hữu như một vật vô thể. Nó là một sự trống rỗng bao la. Nó đã là bầu trời và hơn thế, là cả vũ trụ.
...Như đại dương bao la
Mọi ánh sáng của con và Mẹ, hợp lại thành Một...
Khi bạn trở về cội nguồn nguyên thủy, trở về với đấng Từ Mẫu, vòng tròn đã thành tựu. Bạn phải trở về nhà, về với cội nguồn nguyên thủy. Sông đã trở về nguồn nước của sông. Dòng sông đã trở về cội nguồn nguyên thủy của nó sau khi hoàn tất một chuyến du hành vòng tròn.
Và bây giờ, bạn là....ồ không, kinh nghiệm này đã hoàn toàn khác xưa kia. Tốt nhất là bạn nên nói: Bạn không là....Đây là một kinh nghiệm nghịch lý nhất.
Đây là một trạng thái khó mà diễn đạt và biểu lộ qua ngôn từ. Hành giả phải nếm trọn vẹn hương vị ngọt ngào của nó… Sự Chứng Đắc Tối Thượng, sự An Lạc Tối Hậu… Bạn đã trở về nơi bạn đã ra đi. Hành trình đã kết thúc.

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2020

Sự kỳ diệu trong mỗi chúng ta

Chìa khóa khai mở kho tàng

Con người, trong ý niệm của mình mỗi phút giây thực tại, nơi mỗi người vẫn thường nói ra, suy ngẫm hay quyết định. Cái nền nằm tại đó chính là ngôn ngữ: Và tư duy xét cho cùng chỉ là một cuộc thảo luận bằng ngôn ngữ với chính bản thân mình. Với khái niệm phân tâm học của Sigmund Freud (1856-1939), thì mối quan tâm khoa học lại hướng đến những khía cạnh sâu hơn thế nữa trong ý thức của con người. Có một “tiềm thức”, trong đó ẩn tàng nhiều kinh nghiệm cho từng hoàn cảnh. Đặt ra khuôn khổ cho hành động và ngoài ra còn tích tụ biết bao trải nghiệm tưởng chừng đã quên lãng.

não bộ

Tư duy vô thức là kinh nghiệm "không cần suy nghĩ" được rút ra từ tiềm thức. Đúng hơn, cả hai là những bộ phận của các quá trình trong não bộ: Gọi tin đến, tích trữ tin lại, chuẩn bị ra quyết định hoặc đơn thuần là đánh giá tin. Ở một số bộ phận, có thể so sánh não bộ với một cái máy tính. Tuy nhiên, “cái máy tính” này lại có một công suất mà cho đến tận nay, nó vẫn còn làm nổ tung bất cứ khả năng tưởng tượng nào. Bất cứ ai cũng có khả năng tích trọn tất cả mạng Internet vào trong đầu mình. Có chỗ cho hết thảy, triệu triệu cuốn sách và văn bản, mọi bộ phim trên trái đất này, vô vàn nhạc phẩm, rồi lại còn dữ liệu của hàng tỷ người là chủ tài khoản, với địa chỉ và số điện thoại của họ.

Não bộ có khả năng tích trữ nhiều đến thế để làm gì nhỉ?

Tích trữ từng hình ảnh đã từng thấy, từng giọng nói và thậm chí cả đến hơi gió thoảng đã từng lướt trên làm da vào một thời điểm nhất định, ở một địa điểm nhất định. Có thể hình dung cái “đĩa cứng” ấy là đủ lớn cho tất cả. Và thông tin từ cả một tiểu vũ trụ?!

Tuy nhiên não bộ lại hoạt động theo chức năng không hề giống như máy tính. Chẳng hạn, có ai hỏi về một cảnh nhất định trong một bộ phim truyện thì chỉ cần vài phân số giây thôi, chúng ta đã có thể bắt đầu mô tả. Còn một cái máy tính: Nó phải đọc trên cái đĩa cứng đến vài gigabyte đã, đang và phải xử lý, phải liên tục kiểm định nội dung, kỳ cho tới lúc tìm ra đúng cảnh. Có thể mất hàng giờ, mà như thế thì làm sao có được một câu chuyện trôi chảy.

Não bộ vào cuộc khác hẳn. Hãy hình dung phim truyện, hình ảnh, âm thanh nằm trong một dải phim, như ở cỗ máy những năm 30 của thế kỷ trước. Dải phim ấy phải dài đến vài km và cứ mỗi giây là 24 hình, và cả độ phân giải cũng là ẩn số. Và bây giờ đem cái cuộn đó trải ra mặt đường rồi leo lên một tòa nhà chọc trời. Từ trên đó nhìn xuống, chỉ cần nhìn một lượt, bạn đã có thể thấy trọn cả dải phim và cảm nhận được từng hình ảnh, từng âm thanh. Có thể cảm nhận được trọn cả dải phim hệt như khi bạn chỉ xem có một hình và nhìn thấy những cảnh vật khác nhau ở đó. Giống như bạn đang trải nghiệm sự nhìn về quá khứ, nó không tĩnh nhưng cũng không động, nó vẫn ở đó tại phút giây đó.

Não bộ nhớ trọn được cả một bộ phim, tất cả “chỉ trong một”. Tuy thế, cái đó còn lâu mới đích thị là một yêu cầu đối với nó, vì nó đã được Thượng Đế thiết kế ra để làm việc này. Hãy hình dung, bạn đang tranh luận với ai đấy về một diễn viên nào đó và đang so sánh những vai diễn của anh ta ở nhiều bộ phim khác nhau. Thì có gì là khó cho não đâu, nó có thể nhớ cả chục, thậm chí vài chục bộ phim để kiểm định lại về câu hỏi vừa được đặt ra. Thêm nữa, nó còn kết nối với cả những chuyện đời, chuyện chính trị, nếu như cuộc tranh luận đòi hỏi. Trong khi ấy, mọi người tham gia cứ việc lắng nghe ý kiến của các bên đối thoại để ngẫm nghĩ và hiểu; và thêm nữa, cùng lúc lại còn xử lý nhiều tín hiệu khác (mình sẽ ăn gì tối nay nhỉ?). Não bộ thậm chí có thể giải quyết cái việc ấy ở bên lề (chẳng hạn có hình ảnh món salad trong tủ lạnh) và cùng lúc lại nghĩ đến cái gì đó hoàn toàn khác, bởi câu chuyện ấy thẳng qua cũng chỉ là thứ chuyện tầm phào giữa một cuộc vui, không quan trọng và hấp dẫn chút nào. Với một cái máy tính, đòi hỏi nhiều như thế là vô vọng, bởi lượng dữ liệu chuyển động thật sự khổng lồ. Với não bộ, điều này lại chẳng bõ bèn gì, bởi chức năng hoạt động của nó vốn có phần tựa như mạng Internet hơn là một máy tính đơn lẻ. Và đã có ai hỏi điều gì đã khiến hàng tỉ các tế bào chỉ có nhiệm vụ ghi nhớ, nằm cạnh nhau và thế là nó biến thành một tổ hợp thông minh, điều này không giống với Internet, nó không tìm các câu trả lời liên quan cho từng câu hỏi trong mạng lưới. Nó tự suy nghĩ!

tế bào thần kinh não

Thật thế, trong não bộ vốn sẵn có đến mấy tỷ “cỗ máy tính” là các tế bào thần kinh. Truyền tải các tín hiệu đi khắp cơ thể dưới dạng các chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitters) và hoạt động này diễn ra liên tục. Từng tế bào giao đi dữ liệu của chính mình, nhận lấy dữ liệu của các tế bào khác, xử lý tin rồi truyền kết quả. Các tế bào thần kinh kết nối với nhau, không phải chỉ thành một hàng, mà thành cả một mạng lưới đích thực. Nghĩa là tế bào nào cũng được kết nối với các tế bào khác, kết nối thẳng, có thể thông suốt không chỉ với những tế bào đứng trước hay là sau nó. Trong cái mạng ấy dễ có đến mấy ngàn tế bào thần kinh lo việc điều khiển.

Ở mỗi người và ở cả các thiền sinh nữa, não bộ vốn vận động trong cái vô hạn tương tự. Mặc dù năng suất lớn lao là thế, não bộ lại không hề có ý thức gì về chính nó, hệt như trong mạng internet, từng cái máy tính một chẳng hề có “ý thức” gì về mọi cái máy tính khác. Như thế nhiều khi năng suất có vẻ “siêu nhiên” hoặc như thể là tiếng nói của Thượng Đế. Đặc điểm huyền diệu ở đó là mỗi con người vốn đã sở hữu cái “năng suất tính” lớn lao đến thế lại có thể giao tiếp với những người khác, thành thử với các bộ não của hết thảy mọi người, năng suất để sử dụng mạng internet còn được nhân lên hàng tỷ lần nữa.

Rèn luyện não bộ

Cách đây 2500 năm, Đức Phật từng dạy: Mầm giác ngộ vốn đã sẵn có trong mỗi người. Thiền định thức tỉnh các thiên hướng tự nhiên hoặc khiến chúng đi vào tiềm thức. Ví dụ như trong thể thao: Về nguyên tắc, thể xác của ai cũng như ai. Dân thể thao chịu khó tập luyện cái thân thể ấy, vậy nên mới nhảy được xa hơn, chạy được nhanh hơn. Cũng có thể có bước đột phá, lúc vận động viên chợt cảm thấy năng suất của mình dường như tăng vọt. Cơ sở là ở chỗ vận động viên đâu chỉ huy động và rèn luyện có mỗi một cơ bắp của thân xác. Toàn thân có hiệp đồng thì mới có thành tích được. Ở các cơ bắp, nhờ bền bỉ tập dượt, dần dần thành hình tập hợp tối ưu của các thớ cơ nhanh và chậm. Đó mới là điều quyết định, rồi một cơ bắp có thể sẽ trội về dẻo dai hay là về tốc độ. Thêm nữa, cơ bắp tập dượt cần được cấp thêm dưỡng khí và dưỡng chất. Rồi hàng trăm cơ bắp và cơ khớp phải hiệp đồng đến tối ưu, có vậy các động tác vận động mới chuyển được lực và sự mau lẹ sẵn có biến thành thành tích cao nhất. Việc này là của não bộ dựa vào kinh nghiệm trong quan hệ với thể chất. Chính vì vậy, vận động viên có thể lập được những thành tích không một ai khác với tới được và được xem như “phép màu”.

Thiền định rèn luyện cho não bộ cũng hoàn toàn tương tự. Thế cho nên, những thiền sinh nhận thấy có những năng suất phi thường của não bộ, song những khả năng vượt ra ngoài cái nhận thấy bằng cảm giác thì họ chưa đủ rung động để cảm nhận được. Họ chỉ dẹp bỏ các chướng ngại và theo thời gian, họ với tới và nắm bắt được cái năng suất gần “đến vô hạn” của não bộ. Hãy nhớ là não bộ vốn có khả năng tích trữ tương tự như mạng internet. Vậy thì tác động vào người khác bằng cách nào đây, một con người lúc nào cũng sẵn có nội dung của cả mạng internet để dùng mà lại không có máy tìm kiếm? Cái năng suất của não bộ ở chúng ta đôi khi có vẻ như là siêu nhiên, song chúng không siêu nhiên.

Vậy Thượng Đế: Liệu Ngài đã quên tạo máy tìm kiếm?

Ồ tôi quên mất, chúng ta có hẳn một trường phái tương tự "máy tìm kiếm", chỉ khác ở cái tên.

Thiền định

Chúng ta quá quen với việc phản ứng trước mọi tín hiệu kích thích: Khi điện thoại reo, chúng ta bắt máy; nghe tiếng bấm chuông, chúng ta mở cửa. Nhưng thiền định là nơi mà chúng ta hoàn toàn không phản ứng trước những tín hiệu liên tục đó; tức buông bỏ mọi ràng buộc, và nghịch lý thay, điều này lại giúp chúng ta hòa nhập tốt hơn. Có lẽ đây là điều mới mẻ nhất trong công cuộc mở ra kết nối cao cấp hơn.

Khi thiền định, bạn sẽ đến được một đại dương tràn ngập tỉnh thức thuần khiết và trí huệ. Nó nằm ngoài thân thể và dường như bạn đang ở ngoài đó cảm nhận thấy mình ngồi phía kia, và vẫn cảm nhận sự va chạm của cơ thể, chuyển động ở tay, chân hoặc một chút cảm giác nhẹ nhàng nơi đỉnh đầu. Trạng thái này rất quen thuộc, nó chính là bạn. Bạn ngập trong tiềm thức, nơi lưu giữ kiến thức trong vô vàn kiếp sống mà linh hồn bạn đã trải qua. Ngay khi đó, một niềm hạnh phúc khó tả dâng trào – không chỉ là vui sướng nhất thời, mà là sự mỹ diệu sâu sắc. Khi đó hãy hỏi bất kỳ câu hỏi nào bằng ý niệm và lắng nghe sự phản hồi trong tư tưởng.

Điều gì đã xảy ra trong não khi thiền định?

Đó là sự xuất hiện của các sóng não. Tần số của sóng não sẽ có sự thay đổi tùy theo các trạng thái tinh thần khác nhau, đồng thời cho biết số lượng các hoạt động noron trong não.

Sóng Delta (dưới 4 Hz) là sóng dài nhất, xảy ra chủ yếu khi người ta ngủ sâu.

Sóng Theta (5-8 Hz) phổ biến nhất ở trẻ nhỏ và người lớn khi buồn ngủ.

Sóng Alpha (8-12 Hz) phát ra khi đầu óc được thoải mái, không bị kích động.

Sóng Beta (12-30 Hz) có biên độ nhanh và thấp, là đặc điểm khi bộ não đang tư duy.

Cuối cùng, sóng gamma (30-100 Hz) là tần số cao nhất, cho thấy nhiều hoạt động cùng lúc ở các vùng não khác nhau khi người ta thực hiện hành vi có nhận thức.

Điều quan trọng là não người không chỉ tạo ra một loại sóng; rất nhiều sóng với tần số dao động khác nhau sẽ xuất hiện đồng thời, nhưng tần suất xuất hiện của chúng sẽ thay đổi tùy vào trạng thái tinh thần của một người.

Davidson đã ứng dụng công nghệ điện quang học (electroencephalograph) để làm thí nghiệm với các nhà sư – mỗi người đã có từ 10.000 đến 50.000 giờ thực hành thiền định. Ông yêu cầu họ tập trung vào “từ bi và tình yêu thương vô điều kiện.”

Kết quả cho thấy khi các nhà sư thiền định, tỷ lệ tần số sóng não gamma xuất hiện có thể cao gấp 30 lần so với người bình thường. Thậm chí, vài trường hợp cho thấy biên độ dao động mạnh nhất từng được ghi nhận. Tình trạng này xuất hiện không phải do bất kỳ 1 dấu hiệu bệnh lý nào.

Điều này xác nhận việc tu luyện lâu dài có thể làm thay đổi hoạt động của não.

Giây phút 'aha'!

aha

Hoạt động của sóng Gamma đã chỉ ra sự sắp xếp các noron thần kinh lại với nhau lần đầu tiên trong não để tạo ra một nhánh rẽ gồm các mạng lưới noron mới. Ngay sau khi hoạt động của sóng Gamma tăng lên, ý tưởng mới sẽ được tạo ra trong ý thức và đó là giây phút Aha!.

Trước khi sóng Gamma bùng nổ, sóng Alpha sẽ rơi vào trạng thái "tạm lắng". Ở điểm này có thể thấy dường như có một cơ sở nào đó của việc khiến tâm trí "yên tĩnh" và làm các sóng não chậm lại với mục đích tạo ra các sóng Gamma.

Nếu những bùng nổ sóng Gamma ở mức vừa phải này tạo ra các Giây phút Aha!, vậy loại trực giác hay trải nghiệm nào người ta có thể có tại các mức sóng não 50Hz, 60Hz, 70Hz và cao hơn? Ngoài ra, thời gian cho mỗi đợt bùng nổ này chỉ kéo dài khoảng 1 giây, vậy điều gì sẽ xảy ra nếu quá trình này diễn ra lâu hơn? Liệu chúng ta có thể "nuôi dưỡng" các sóng này theo ý muốn? Tất cả câu trả lời đều được giải đáp khi đạt trạng thái thiền sâu!

Một số thiền sư Tây Tạng có khả năng tạo ra hoạt động sóng Gamma mạnh hơn rất nhiều so với các trường hợp đã được ghi lại trong lịch sử. Các tình huống đột phá ý tưởng, hay nói cách khác là bùng nổ sóng Gamma diễn ra trong trạng thái "mơ màng", một số người cho đó là do ảo giác. Tuy nhiên, một số thông tin thu được trong những trường hợp này có thể tạo ra các kết quả bất ngờ, chẳng hạn như phát hiện về tốc độ ánh sáng của Albert Einstein hay mô hình nguyên tử của Neils Bohr.

Vậy nó hẳn không phải là "ảo giác".

Các giấc mơ có thể cung cấp những thông tin có giá trị. Câu trả lời có thể là không nhưng thử hình dung xem trong trạng thái tỉnh thức, loại tri thức đỉnh cao nào có thể đạt được khi chúng ta có thể tùy ý tạo ra sóng não 250Hz để giải quyết một vấn đề nào đó. Và thứ mà chúng ta gọi là giấc mơ đó phải chăng là trạng thái đi vào tiềm thức, một bộ nhớ khổng lồ tổng hợp kiến thức của chính chúng ta qua hàng kiếp luân hồi.

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Từ năng lượng vũ trụ đến vật lý lượng tử và kết nối tâm thức

Năng lượng vũ trụ

nang luong vu tru
Năng lượng vũ trụ là khởi nguồn của sự sống muôn loài. Sự rung động, tương tác, va đập của các sợi năng lượng với các tần số, cường độ và tính chất khác nhau hình thành nên thế giới hữu hình. Sự sắp xếp và hiện diện của muôn loài mang tính đa dạng, đó chính là hình thức tồn tại tạm thời của các vật thể hữu hình, là sự cô đặc của năng lượng do tương tác này hay khác mà ra.

Rung động của các lượng tử vũ trụ

vat ly luong tu
Giới vật lý lượng tử đã phát hiện ra rằng các nguyên tử vật lý được tạo thành từ vô số các xoáy năng lượng được gọi là các hạt quark và photon, các xoáy năng lượng này liên tục quay và rung động, mỗi cái đều phát ra đặc tính năng lượng duy nhất (unique energy signature) của mình. Đây là những gì tạo nên cấu trúc nguyên tử. Khi quan sát gần hơn, ta sẽ không thấy gì cả, mà chỉ thấy một khoảng trống vật lý. Nguyên tử không có cấu trúc vật lý, vật chất thực sự không có cấu trúc vật lý nào cả. Nguyên tử được tạo ra từ năng lượng vô hình, không phải từ vật chất hữu hình.
Cha đẻ của lý thuyết lượng tử, Tiến sỹ Max Planck, người nhận giải Nobel vật lý năm 1918, có kết luận: Không có bất cứ vật chất nào tồn tại trên thế giới, và vật chất được cấu tạo từ các lượng tử rung động liên tục.
Khoa học hiện đại cũng xác nhận mối quan hệ giữa năng lượng và vật chất, nổi tiếng nhất là công thức E=mc2 của Einstein (E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng).
Tuy nhiên, con người bị giới hạn trong cảm quan vốn quen tiếp xúc với không gian 3 chiều và khái niệm thời gian tuyến tính; thuyết vật lý cổ điển của Newton cho rằng thực thể và vật chất có cùng biên giới, còn James C. Maxwell cho rằng thực thể và vật chất có cùng trường năng lượng liên tục và thăng giáng. Cả hai đều trở thành 2 trụ cột lớn của vật lý học cổ điển cuối thế kỷ 19.
Tuy nhiên, khi các nhà khoa học khám phá sâu hơn lĩnh vực nguyên tử, hoặc khi khám phá vũ trụ bao la, họ phát hiện rằng bản chất của vật chất và năng lượng là điều vượt ra ngoài hiểu biết, kinh nghiệm và giác quan của con người. Cơ học lượng tử và thuyết tương đối xuất hiện đầu thế kỷ 20 cũng hoàn toàn phản đảo lại nhận thức về không gian của vật lý học và cơ học cổ điển. Nổi tiếng nhất là công thức của Planck: E=hv (E là năng lượng của mỗi lượng tử, h là hằng số Planck – hằng số lượng tử Planck, v là tần số dao động của lượng tử), vì h là hằng số nên lượng tử có tần số dao động càng cao thì năng lượng của nó càng lớn.
Theo đó, tất cả các vật chất hữu hình lẫn vật chất vô hình đều là các năng lượng liên tục rung động. Sự khác biệt giữa chúng là tần số dao động khác nhau, và do đó, các vật chất khác nhau có ý thức khác nhau và hình thức được tạo ra khác nhau. Vật chất có tần số rung động cao trở thành những vật chất vô hình, như suy nghĩ, cảm xúc và ý thức của con người. Vật chất có tần số rung động thấp trở thành những thứ hữu hình như bàn, ghế và cơ thể người, những thứ có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Con người đồng thời tồn tại trong 2 dạng thế giới khác nhau, trên đầu là thế giới tinh thần có tầng thứ cao, dưới chân là thế giới thực thể vật chất hóa, con người có nhục thể nhưng cũng có linh thể. Mới thoạt nghe, “linh thể” và “nhục thể” là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng linh thể và nhục thể không phải là không có liên hệ gì, bởi vật chất là năng lượng, vật chất hữu hình và vô hình là năng lượng không ngừng dao động, sự khác nhau của chúng là tần số dao động khác nhau, từ đó mà sinh ra vật chất khác nhau có dạng thức hoặc hình thức khác nhau.
Cổ nhân nói “sinh mệnh đang vận động”, dù là “nội tĩnh ngoại động” (thể dục) hay là “ngoại tĩnh trong động” (thiền định) thì đều chính xác.
Xét theo nghiên cứu tâm linh (Psychic Research) và nghiên cứu y học mà nói, tần số dao động năng lượng cao là thuộc về bậc Giác Ngộ ở tầng tâm thức cao trong khi tần số dao động trong không gian 4 chiều của nhân loại là thấp nhất, sinh ra vật chất thô và nặng như thân xác thịt của con người.

Kết nối tâm thức

Trong truyền thống Phật giáo Kim Cương thừa, chân ngôn hay âm thanh thanh tịnh có tầm quan trọng đặc biệt. Trên phương diện năng lượng, chân ngôn là một đơn âm hoặc chuỗi âm thanh có liên quan đến một vị Phật Bản tôn và vì thế chứa đựng hàng loạt sóng âm ba và năng lượng tâm linh vô cùng tích cực. Khi trì tụng, chân ngôn không chỉ giúp tiêu trừ bệnh tật, phiền não, nghiệp chướng mà còn có năng lực kết nối, hợp nhất tâm chúng ta với những tầng tâm thức cao hơn. Chân ngôn như vậy là chìa khóa trực tiếp giúp hiển lộ vũ trụ pháp giới bên ngoài và bên trong, là công cụ nhanh chóng, nhẹ nhàng, hiệu quả để tiếp cận những kênh năng lượng linh thiêng từ các chiều tâm thức cao hơn. Công lực của chân ngôn phụ thuộc vào trạng thái thiền định và nội chứng của bạn và đặc biệt vào sự hướng đạo chỉ dẫn từ một bậc Thầy tâm linh giác ngộ.
man da la
Một chân ngôn hay còn gọi là một Mantra không phải là lời cầu nguyện mà là bản chất sâu kín của thực tại nên đôi khi người ta trì tụng như là tán tụng. Về cách thức, lời trì tụng chân ngôn không chỉ ở cổ họng phát ra mà chúng ta phải cảm nhận đồng thời âm thanh và những tần sóng, sự rung động của thân tâm mình cùng lúc với tình yêu thương vô điều kiện. Người mới trì tụng chân ngôn đầu tiên nên trì tụng để nghe rõ âm thanh mình, để sóng âm ba của chân ngôn phát ra lan tỏa sâu hơn vào tim và cuối cùng là tập an trụ trong sự an tịnh, để siêu thanh bên trong tự nhậm vận hoạt động.
Tuy nhiên, thời đại ngày nay đã có sự thay đổi tần số rung động khá lớn so với thời điểm cách đây vài ngàn năm. Nên các Mantra hầu hết đã không còn khả năng truyền dẫn năng lượng vũ trụ hoặc có nhưng rất hạn chế. Điều này có thể kiểm chứng qua tần số Schumann qua các thời kỳ trái đất. Với thời của Đức Phật, tần số Schumann của trái đất khá thấp và các bài kinh kệ khi đó có khả năng truyền dẫn năng lượng vũ trụ một cách mạnh mẽ xuống các vị thiền sư. Nhưng thời điểm hiện tại, tần số Schumann đã tăng một cách đột biến, điều này gây ra rất nhiều áp lực lên cơ thể con người và trái đất, như các biểu hiện trầm cảm, stress nhiều hơn và thiên tai cũng nhiều hơn. Hiện tại chỉ có duy nhất Raki phương pháp có thể kết nối năng lượng vũ trụ.

Lời kết

Quả địa cầu là một trong nhiều hành tinh xinh đẹp trong toàn cõi vũ trụ. Con người là chủ thể, là sản phẩm hoàn hảo và tinh tế nhất của sự sống, của đấng tạo hóa - Thượng Đế. Và trong sự vận động không ngừng nghỉ, con người cùng với khả năng tư duy của não bộ, cải tạo quả địa cầu, sáng tạo ra của cải vật chất, làm cho cuộc sống trần gian ngày càng tiện ích hơn. Nhưng cũng đầy sự tham lam, ích kỷ và độc ác hơn
Một thực tế đã và đang diễn ra, con người phải nhìn thẳng vào sự thật rằng, từ các vấn đề nhỏ: Ốm đau, bệnh tật, xáo trộn cuộc sống gia đình, trật tự xã hội … đến các vấn đề lớn hơn: Sự biến đổi khí hậu, môi trường, thiên tai địa ách, dịch bệnh… không thể đo lường hết và giải quyết triệt để bằng sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật truyền thống. Và cũng đừng mong những điều này dừng lại mà hãy mong con người dừng lại trước khi quá muộn.
Đã đến lúc con người phải nhìn lại chính mình, quay về tâm, tìm về nơi sâu thẳm nhất trong cõi lòng mình, để biết “ Mình là ai, đến với trái đất này để làm gì?”
Chìa khóa duy nhất giải quyết mọi bế tắc, khổ đau là Tâm linh, là Raki.
Tâm linh không thể định nghĩa là gì. Danh từ Tâm linh dùng để chỉ những quyền năng vô hình. Phải chăng chỉ khi nào con người biết, hiểu và sử dụng đúng mức những tri thức tâm linh thì mọi vấn nạn được giải quyết, và kiến tạo cuộc sống văn minh hậu con người.

Chúng ta và Thượng Đế là Một?

Không có sự tách biệt Cái tổng thể - Nguồn - tự trải nghiệm mọi mặt của đời sống ở các phần nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa của chính nó. Tất cả các ...